Khám phát hiện bệnh nghề nghiệp

0
532

Ý nghĩa của vấn đề

– Một trong những vấn đề nhằm khống chế, phòng chống bệnh nghề nghiệp (BNN) là phát hiện sớm bệnh để có thể can thiệp, điều trị bệnh ở giai đoạn phục hồi.

+ BNN do các yếu tố môi trường lao động gây ra tuy không nhiều như các bệnh thông thường khác nhưng cũng ảnh hưởng đến một số người đáng kể, đặc biệt ngày càng nhiều BNN ở các nước công nghiệp hóa nhanh chóng.

+ BNN trở thành nghiêm trọng trong nhiều trường hợp, làm mất khả năng lao động, rút ngắn tuổi thọ của bệnh nhân…

– Tác nhân gây bệnh có thể nhận biết được, đo lường được, có thể khống chế hoặc loại trừ được

– Số người có nguy cơ mắc bệnh dễ tiếp cận, có thể giám sát đều đặn, định kỳ và được điều trị.

Hơn nữa, những biến đổi ban đầu của bệnh thường phục hồi nếu được điều trị kịp thời, tích cực. Vì vậy việc phát hiện sớm BNN có tầm quan trọng hàng đầu và cũng là mục tiêu của y học lao động hay sức khỏe nghề nghiệp.

Phát hiện sớm bệnh nghề nghiệp

Vì vậy dự phòng BNN hoặc tàn tật, sự xác định suy yếu, hư hại sức khỏe phải được dựa trên những biến đổi sớm về sinh hóa học, hình thái học và chức năng được khi xuất hiện các dấu hiệu và triệu chứng.

Các loại suy yếu, hư hại sức khỏe

+ Các biến đổi sinh hóa học và hình thái học có thể được đo lường, phân tích trong phòng thí nghiệm

+ Các biến đổi về tính trạng thể lực và chức năng của hệ thống cơ thể có thể được đánh giá bằng kiểm tra thể lực và bằng các xét nghiệp trong phòng thí nghiệm, như điện tâm đồ, các test về khả năng lao động thể lực, các test về chức năng thần kinh cao cấp…

+ Các biến đổi về sự thoải mái có thể được đánh giá bằng tiểu sử sức khỏe và bằng bộ câu hỏi.

Giám sát sức khỏe để dự phòng BNN

Các nội dung chính trong dự phòng BNN là giám sát môi trường lao động (GSMTLĐ), Giám sát sinh học (GSSH) và giám sát sức khỏe (GSSK).

+ Giám sát môi trường lao động: GSMTLĐ có nhiều mục tiêu (đánh giá các yếu tố môi trường lao động về vật lý, hóa học và sinh học, về ecgonomi, về tâm lý, xã hội..), trong đó có mục tiêu đánh giá tiếp xúc nghề nghiệp. Với các yếu tố hóa học khi vượt qua NĐCP thì cần tiến hành giám sát sinh học, tức là xác định hóa chất- chất độc và chất chuyển hóa của chúng trên cơ thể công nhân tiếp xúc.

+ Giám sát sinh học: Giám sát sinh học là bước khởi đầu trong biện pháp dự phòng BNN, là nội dung cơ bản nhằm phát hiện sớm BNN. Sự can thiệp y học trong khám sức khỏe tuyển dụng, đặc biệt là khám sức khỏe định kỳ cũng làm cơ bản trong phát hiện sớm và quản lý BNN.

+ Giám sát sức khỏe: Việc kiểm tra sức khỏe đối với mọi nghề nghiệp đều được thiết kế nhằm đảm bảo cho người lao động được bố trí, phân công phù hợp với công việc và duy trì trong suốt quá trình hành nghề của công nhân. Mọi biến đổi sức khỏe phải được phát hiện sớm và phải được quản lý một cách thích hợp.

Việc kiểm tra sức khỏe công nhân một cách thường xuyên sẽ phát hiện được và làm bộc lộ ra sự có mặt (tồn tại) của yếu tố độc hại tại nơi làm việc. Vì vậy sự đánh giá và khống chế các yếu tố độc hại trong môi trường lao động là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng về dịch tễ học.

Các bước tiến hành

a. Kiểm tra sức khỏe tuyển dụng

– Việc kiểm tra được thực hiện trước khi công nhân vào làm việc hoặc trước khi họ được bố trí vào nơi làm việc có tiềm ẩn yếu tố độc hại.

– Các thông tin về tình trạng sức khỏe công nhân là số liệu gốc cần được lưu trữ vì rất có giá trị để theo dõi, đánh giá sức khỏe công nhân những năm sau

– Kết quả kiểm tra sức khỏe cũng giúp cho người quản lý bố trí người lao động vào công việc phù hợp với khả năng của họ.

– Hồ sơ sức khỏe bao gồm các chuyên khoa, các xét nghiệm cận lâm sàng, bao gồm cả X quang phổi, chức năng hô hấp, thính lực đồ…

Lưu ý các yếu tố nguy cơ như tuổi, giới tính và tính mẫn cảm cá nhân; các yếu tố ảnh hưởng; dinh dưỡng, bệnh tật quá khứ và hiện tại, yếu tố tiếp xúc…

b. Kiểm tra sức khỏe định kỳ

– Kiểm tra sức khỏe định kỳ phải được thực hiện với các khoảng cách thời gian đều đặn sau lần khám tuyển đầu tiên, không nhất thiết phải có đầy đủ các chuyên khoa, nhưng cần có chuyên khoa BNN.

– Thủ tục kiểm tra sức khỏe định kỳ khác với khám tuyển. Tùy theo yếu tố tiếp xúc chủ yếu, thiết kế hình thức kiểm tra thể lực thích hợp với yếu tố tiếp xúc.

– Phạm vi và tính định kỳ trong kiểm tra sức khỏe phụ thuộc vào bản chất và phạm vi của nguy cơ. Việc kiểm tra phải nhằm vào các cơ quan và hệ thống cơ quan dễ bị tác động bởi các yếu tố độc hại tại nơi làm việc.

– Tần số kiểm tra đối với mỗi tác nhân độc hại được xác định bằng giai đoạn tiềm tàng, tức là thời kỳ giữa tiếp xúc và sự phát triển của một hư hại sức khỏe. Đó là cơ sở chính.

– So sánh, đánh giá các kết quả kiểm tra sức khỏe của từng cá nhân người lao động khi tuyển dụng và định kỳ . Từ đó phát hiện các thay đổi sức khỏe trên các chỉ tiêu đã thực hiện.

c. Các test đặc hiệu

– Tiếp xúc nghề nghiệp với các vật liệu nguy hiểm cũng như các hậu quả trên sức khỏe có thể được đánh giá bằng một số test đặc hiệu mà y học lao động gọi là test tiếp xúc.

+ Phân tích các mẫu sinh học như nước tiểu và máu có thể được dùng để phát hiện và đánh giá một hóa chất hoặc chất chuyển hoá của nó.

+ Đánh giá chức năng phổi và các biến đổi X quang trong những trường hợp tiếp xúc với bụi thường là chỉ điểm cho mức độ hư hại chức năng và bệnh lý.

– Cũng có các nghiên cứu chức năng có thể được sử dụng như các test đặc hiệu phát hiện sớm và có khả năng phục hồi, các giai đoạn của BNN, ví dụ các phương pháp điện tâm ký, điện não ký, đánh giá tốc độ dẫn truyền thần kinh và đo thính lực.

+ Cần thiết phải có các số liệu bình thường của người khỏe mạnh để đánh giá ý nghĩa của các trị số trên người tiếp xúc.

Người ta làm test trên công nhân không tiếp xúc với độc hại so sánh với số liệu trên công nhân tiếp xúc và số liệu làm test khi kiểm tra sức khỏe tuyển dụng

+ Tiêu chuẩn chọn lựa các test đặc hiệu là: có giá trị nhiều, có độ nhạy cao, có chi phí thấp và bảo đảm an toàn

Đặc biệt có giá trị nếu các test đó có thể áp dụng trên hiện trường (thực địa) và người sử dụng không đòi hỏi tay nghề cao hoặc đào tạo lâu mà chỉ tập huấn ngắn hạn.

– Ví dụ về thực hành một số test

+ Tiếp xúc với chì (vô cơ): ứng dụng test Delta ALA niệu, Coproporphyrin niêu.

+ Tiếp xúc với hóa chất trừ sâu lân hữu cơ và cacbamat: Đo hoạt tính men cholinesteraza trong máu.

+ Tiếp xúc với các tricloetylen: bán định lượng tricloaxetic trong nước tiểu.

+ Tiếp xúc với bụi và các sợi hữu cơ: Phát hiện sớm ảnh hưởng bằng đo chức năng hô hấp, có thể bổ sung bằng bảng câu hỏi.

+ Phân tích hơi thở khi tiếp xúc với một số khí và hơi bằng các thiết bị phân tích không khí, ví dụ với CO.

+ Tiếp xúc với các tác nhân làm hư hại thận hoặc chức năng gan: xét nghiệm protein, urobilinogen, sắc tố mật,…

– Cần có sự tham gia của người lao động

Mọi công tác liên quan đến sức khỏe công nhân cần phải có sự tham giá đầy đủ và tích cực của học để đảm bảo hiệu quả của công việc, giảm bớt khó khăn.

Người lao động cần được thông báo về các nguy cơ sức khỏe tại nơi làm việc và học cần được khuyến khích thực hành các biện pháp làm giảm nguy cơ, cải thiện điều kiện lao động, bảo vệ sức khỏe cho chính họ…

Nguồn tin: theo cuốn ” Vệ sinh lao động” NXB KH&KT năm 2010

DUOI

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here